Đại sư Cưu Ma La Thập là ai trong Phật Giáo Trung Quốc?

Đại sư Cưu Ma La Thập là ai trong Phật Giáo Trung Quốc? Đại sư Cưu Ma La Thập tên tiếng Phạn là Kumārajīvasinh, sinh năm 344 và mất năm 413 CN. Là một vị cao tăng đời Đông Tấn. Ngài là một trong bốn nhà dịch kinh lớn của Trung Quốc. Cha là Cưu Ma La Viêm, mẹ là Kỳ Bà. Ngay từ trong bụng mẹ, Cưu Ma La Thập đã độ cho mẹ của mình. Kỳ Bà không biết tiếng Ấn Ðộ, nhưng khi mang thai Ngài, lại có thể nghe nói được tiếng Phạn, còn có tài năng biện tài vô ngại.


Một vị A La Hán thời bấy giờ đã nói với mọi người rằng: “Ðứa trẻ ở trong bụng của bà này chẳng phải tầm thường, là người có đại trí huệ. Trước kia, đệ tử của Đức Phật là Ngài Xá Lợi Phất ở trong bụng mẹ, thì mẹ của Ngài cũng có trí huệ biện tài vô ngại. Đại khái đứa trẻ này cũng như Xá Lợi Phất“.

Sau khi sinh Ngài ra, sau 3 năm mẹ của Ngài lại sinh thêm một người con nữa. Từ đó trở đi, Kỳ Bà thường xuyên đến Chùa nghe giảng kinh. Vì căn cơ của bà ta sâu dày, sau khi nghe sư thầy giảng giải về vô thường, vô ngã, khổ thì bà phát tâm muốn xuất gia. Nhưng phụ thân của Ngài là ông Cưu Ma La Viêm không cho bà xuất gia vì tham luyến vợ đẹp, tài sản và địa vị. Nhưng về sau khi bà quá kiên quyết còn tuyệt thực không ăn, ông đã phải để bà xuất gia.


Khi Ngài 7 tuổi cũng theo mẹ đi xuất gia, nhận Bàn Ðồ Bồ Ðạt Ða làm thầy, tu học theo Tiểu Thừa. Ngài được học các luận Tỳ Đàm, Lục Túc và học hỏi thêm các kinh luận ngoại đạo. Khi tu học theo Tiểu Thừa, dù mới 7 tuổi nhưng mỗi ngày học đến 36.000 chữ, có thể thấy trí tuệ này, chẳng phải người thường. Chẳng lâu sau Ngài đã học hết toàn bộ lý thuyết Tiểu Thừa, thấy được sự vi diệu trong đó. Ngoài ra, Ngài còn học các môn khác trên thế gian từ Y dược đến chiêm tinh, bói quẻ,…

Sau này, Ngài đến Ấn Ðộ học pháp Đại Thừa. Lúc bấy giờ có ngài Tu Da Lợi Tô Ma thành thạo kinh điển Đại Thừa, Ngài kính trọng, bái nhận làm thầy và xin thọ học giáo lý. Khi học Đại Thừa Ngài lại chiêm nghiệm thêm nhiều điều, thấy được pháp Đại Thừa là diệu trong diệu, chẳng thể nghĩ bàn. Không lâu sau, đạo đức của Ngài cũng lan đến Tây Vực, nổi tiếng khắp khu vực Đông Độ.

Năm 401 vua Tần sai người nghênh đón Ngài về kinh đô Trường An để tiếp đãi và tôn Ngài làm Quốc sư, sắp đặt lầu Tây Minh và vườn Tiêu Dao cho Ngài ở và dịch kinh. Lúc bấy giờ, có đến 3000 hàng Sa-môn ở khắp nơi theo học Ngài. Trong đó, có 8 vị tài năng, nổi tiếng là Đạo Sinh, Đạo Dung, Tuệ Quán, Tuệ Nghiêm, Tăng Duệ, Đạo Hằng, Tăng Ảnh, Tăng Triệu.

Đến năm 409 (Cao Tăng Dị Truyện lại ghi là năm 413), Ngài thị tịch ở Trường An Đại Tự, thọ 70 tuổi. Trước khi mất Ngài đã nói lời nguyện, nếu những bản kinh luật hay luận Ngã đã dịch ra, nghĩa lý đúng đắn, chẳng lầm, tương hợp với tâm Phật thì sau khi viên tịch, hỏa táng sẽ để lại cái lưỡi. Và sau khi thị tịch, thiêu thân xác Ngài xong lưỡi Ngài vẫn còn nguyên vẹn.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Địa Tạng Vương Bồ Tát và Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện Trọn Bộ

Phật Mẫu Chuẩn Đề Bồ Tát là ai và Thần chú của Ngài là gì?

Cõi Tây Phương Cực Lạc là gì và liệu có thật hay không?